Showing posts with label Tin tuc. Show all posts
Showing posts with label Tin tuc. Show all posts

Wednesday, May 6, 2009

Peter Zumthor đoạt giải thưởng Pritzker 2009

Peter Zumthor, kiến trúc sư tới từ Thụy sĩ đã được lựa chọn trở thành người đạt giải thưởng kiến trúc danh giá Pritzker. Một buổi lễ trang trọng nhằm công bố vị trí danh tiếng trong ngành kiến trúc này sẽ được tổ chức vào ngày 29 tháng 5 năm 2009 tại Buenos Aires, Argentina , cùng với đó sẽ là một phần thưởng 100, 000 USD và huy chương sẽ trao tặng cho ông.

Mặc dù hầu hết các tác phẩm của ông đều tại Thụy sĩ , ông cũng thiết kế các công trình tại Đức, Áo, Hà lan, Anh, Tây ban nha, Na uy, Phần lan và Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tại Vals, Thụy sĩ – Phòng tắm nước nóng, công trình này được báo chí đánh giá là “tuyệt tác của tác giả”. Còn công trình được các nhà phê bình ca ngợi lại là Nhà nguyện Field Chapel dành cho thánh Nikolaus von der Flüe gần Cologne của Đức. Ban giám khảo cho rằng không chỉ những tác phẩm trên mà ông còn có tác phẩm Bảo tàng Kolumba tại Cologhe, tác phẩm được đánh giá là “tác phẩm đương đại gây sửng sốt nhưng lại cũng thực sự xoa dịu được các tầng lớp lịch sử của nó

Trong tuyên bố lựa chọn của ban giám khảo, Thomas J. Pritzker, chủ tịch của tổ chức The Hyatt Foundation nhắc lại tuyên dương của ban giám khảo, “Peter Zumthor là một bậc thầy kiến trúc được thừa nhận bởi các đồng nghiệp trên khắp thế giới bởi các tác phẩm hội tụ, không khoan nhượng và kiên định mạnh mẽ ” và ông nói thêm, “Tất cả các công trình của Peter Zumthor đều biểu hiện mạnh mẽ và vựơt thời gian. Ông có một tài năng hiếm thấy trong việc kết hợp các suy nghĩ nghiêm túc rõ ràng với các kích thước đầy chất thơ, tạo nên các tác phẩm gây cảm hứng bất tận”

Trong phần bày tỏ được thể hiện trong cuốn sách của mình, Zumthor nói, suy nghĩ về Kiến trúc, “Tôi tin rằng kiến trúc ngày nay cần phải thể hiện được nhiệm vụ và khả năng vốn đã thuộc về nó. Kiến trúc không phải là cỗ xe hay một biểu tượng mà không thuộc về sự cần thiết của nó ”

Phòng tắm nước nóng, Vals, Switzerland (Photographer: Margherita Spiluttini)

Trong một xã hội mà tôn vinh cái không cần thiết, Kiến trúc có thể đưa đến một sự đối lập, phản ứng lại cac sự phí phạm của hình thức và ý nghĩa, và nó sẽ cất tiếng nói riêng của mình lên. Tôi tin rằng ngôn ngữ của kiến trúc không phải là một đòi hỏi cho một phong cách cụ thể. Mọi công trình được xây dựng cho một chức năng cụ thể, tại một nơi chốn cụ thể và cho một xã hội cụ thể. Công trình của tôi cố gắng trả lời được các câu hỏi xuất hiện trong thực tế giản đơn, chính xác và thực tế như chính bản thân nó.”

Kolumba - Erzbischöfliches Diözesanmuseum, Cologne, Germany (Photographer: Sasha Cisar)

Chủ tịch giám khảo giải thương Pritzker, The Lord Palumbo nói thêm về lời tuyên dương: “Zumthor có một khẳ năng sắc bén trong việc tạo nên các địa điểm mà dường như hơn cả một công trình đơn thuần. Kiến trúc của ông ta thể hiện một sự tôn trọng trước nhất với địa điểm, sự kế thừa của văn hóa bản địa và các bài học vô giá từ lịch sử kiến trúc” ông nói thêm “Trong đôi bàn tay thành thạo của Zumthor, như trong đôi tay của một người thợ lành nghề, vật liệu từ sỏi đá cho tới kính phun cát được sử dụng một cách đặc biệt mà tôn lên vẻ đẹp đặc trưng cảu chúng, tất cả đều trong buổi lễ dành cho kiến trúc của sự vĩnh cửu”.

Kolumba - Stitched Panorama of Interior (Photographer: Sasha Cisar)

Zumthor, khi được báo là đã dành giải thưởng Pritzker 2009 đã nói, “Được trao giải thưởng Prizker là một sự ghi nhận tuyệt vời cho quá trình hành nghề 20 năm trong ngành kiến trúc của chúng tôi. Khối lượng công việc nhỏ bé cũng như chính sự chúng tôi được ghi nhận trong giới làm nghề là niềm tự hào và cũng đem đến sự hi vọng cho các đồng nghiệp trẻ đang phấn đấu cho các tác phẩm chất lượng, và nó trở nên rõ ràng hơn bao giờ mà không cần tới một sự đề bạt đặc biệt nào. ”

Việc Zumthor trở thành người đọat giải đánh dấu lần thứ hai trong 3 thập kỷ của giải thưởng Prizker, nước Thụy sĩ có kiến trúc sư nằm trong danh sách giả thưởng. Vào năm 2001, Jacques Herzog và Pierre de Meuron cũng đã được vinh danh.

Saint Benedict Chapel, Sumvitg, Switzerland (Photographer: Rory Hyde)

Mục tiêu của giải thưởng này là nhằm hằng năm vinh danh một kiến trúc sư đang còn sống , người mà các công trình đã xây của họ biểu hiện rõ các tố chất ( tài năng, tầm nhìn và sự cam kết ), mà tạo nên các đóng góp phù hợp, quan trọng cho nhân loại và môi trường xây dựng thông qua nghệ thuật kiến trúc.

-->đọc tiếp...

Tuesday, April 14, 2009

Chùa Dâu - Nơi khởi nguồn đạo Phật Việt Nam

Chùa Dâu tên chữ là Pháp Vân tự, Diêu Ứng tự hay Cổ Châu tự, thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. cách Hà Nội khoảng 30km. Chùa Pháp Vân cùng các chùa Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện hợp thành chùa Tứ Pháp. Ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần: chùa Pháp Vân thờ Bà Dâu, chùa Pháp Vũ thờ Bà Đậu, chùa Pháp Lôi thờ Bà Dàn, chùa Pháp Điện thờ Bà Tướng.

Chùa được xây dựng từ đầu công nguyên ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu, là một trung tâm Phật giáo Việt Nam xưa nhất. Từ cuối thế kỷ VI, Thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci), người Nam Âởn Độ, đã mở đạo tràng thuyết pháp tại chùa, lập nên Thiền phái đầu tiên ở Việt Nam. ởChùa đã được Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đứng ra dựng lại với quy mô lớn vào thế kỷ XIV và được trùng tu nhiều lần ở các thế kỷ sau. Ơ tòa thượng điện, còn một số mảng chạm khắc của thời Trần, thời Lê. Chùa có tháp Hòa Phong nổi tiếng, tương truyền có 9 tầng, nay chỉ còn 3 tầng, được đại trùng tu vào năm 1737. Chùa Pháp Vân là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay, được xem là ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.

Chùa nằm ở trung tâm của khu di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu và phong phú bậc nhất của quê hương Kinh Bắc. Nơi đây bao gồm thành cổ Luy Lâu, đền thờ và văn mộ Sĩ Nhiếp, hệ thống chùa tháp, dấu tích đền đài, dinh thự, đường xá, bến bãi, phố chợ, hàng trăm mộ táng, lò gạch ngói, gốm cổ… làm chứng tích một thời kỳ dài hàng chục thế kỷ trước và sau Công nguyên.

Nơi đây từng là thủ phủ của quận Giao Chỉ, sau là Giao Châu - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của nước ta.

Những tài liệu, cổ vật còn lại ở chùa Dâu, đặc biệt là bản khắc “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh”, có niên đại 1752 cùng kết quả nghiên cứu về lịch sử Phật giáo VN của các nhà sử học và Phật học đã khẳng định chùa Dâu là tổ đình của Phật giáo VN xuất hiện cách đây khoảng 1800 năm.

Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới vùng Dâu - tức Luy Lâu, tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu - một trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất VN.

Chùa tháp được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, lầu gác, bến bãi, phố chợ sầm uất của đô thị Luy Lâu, trong đó chùa Dâu là một trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) - một nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Dâu.

Chùa Dâu trở thành trung tâm của Thiền phái Tì -ni -đa -lưu -chi, nơi trụ trì của nhiều cao tăng VN, Ấn Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo tăng ni.

Thời Lý -Trần, chùa Dâu được trùng tu mở rộng với quy mô lớn mà người có công đầu là trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Vua quan, các cung tần mỹ nữ các triều đại thường lui tới thăm chùa, lễ Phật, cầu đảo, cầu tự.

Lễ hội chùa Dâu hàng năm vào ngày tám tháng tư âm lịch- ngày kỷ niệm Phật mẫu Man Nương sinh hạ nữ nhi. Đây cũng là một trong những lễ hội Phật giáo lớn của vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Trải qua bao biến động lịch sử, thành lũy, đền dài, dinh thự của trung tâm Luy Lâu bị hoang phế. Nhưng chùa Dâu với tháp Hòa Phong vươn cao và hàng trăm gian chùa cổ kính vẫn tồn tại với thời gian.

Đặc biệt, ngôi tháp Hòa Phong 3 tầng vươn cao, hệ thống tương Pháp Vân (tức bà Dâu), kim đồng ngọc nữ, tượng Mạc Đĩnh Chi, các ngai thờ, tương Thạch Quang, bia đá… là những di sản nghệ thuật quý và tiêu biểu của thời Lê. Đáng chú ý là bộ khắc ván “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh” là nguồn sử liệu đặc bịệt quan trọng giúp cho việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo VN.


Ấn Tượng Chùa Dâu

Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về

Gần hai ngàn năm biến dịch với bao lần đổi thay, tu tạo có lẽ bây giờ cảnh quan chùa Dâu đã khác xưa nhiều. Nghe nói, trước đây con đường vào chùa đẹp lắm. Qua tam quan đồ sộ và bãi đất rộng nằm giữa hai dãy ao dài in bóng chiếc cầu chín nhịp có mái lợp, kiểu nhà cầu cổ ta còn thấy ở Hội An và một số nơi khác, khách bộ hành vào chùa dâng hương thờ Phật. Đây là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất ở Việt Nam, ngay từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên.

Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt, chùa Dâu được cất theo kiểu nội công ngoại quốc, một kiểu kiến trúc á Đông truyền thống. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi chính: Tiền đường, Thiện hương và Thượng điện. Hậu đường xưa giờ không còn nữa, nhưng khách thăm chùa vẫn còn được chứng kiến bốn mươi tễ gian nhà oản hai bên tả hữu. Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Dấu vết xưa nhất còn lại của ngôi chùa được khảo cổ học xác định là từ đời Trần, đợt tu bổ lớn nhất là vào năm 1313, đời vua Trần Anh Tông.

Theo nghiên cứu sử học, chùa Dâu với nhiều tên gọi: Diên ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự...có thể ra đời đồng thời với truyền thuyết Man Nương, một trong những mã khóa mở vào tầng sâu của văn hóa Kinh Bắc. Vậy nên, hợp với chùa tổ Man Nương là cả một quần thể những chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn thờ tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, một từ ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống, nơi đây từng là nơi "kinh đô" của Phật giáo Việt Nam hơn mười thế kỷ đầu; với nhiều nhà sư nổi tiếng, với hội tắm Phật mùng tám tháng tễ hàng năm:

Dù ai buôn bán trăm bề
Nhớ ngày mùng tám thì về hội Dâu.

Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun. Gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ ấn, tới quê hương Tây Trúc, nơi cội nguồn của tễ tưởng thiện căn, của đức Từ - Bi - Hỉ - Xả. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Đặc biệt hai pho tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ đặt hai bên điện thờ chính gợi nhớ tới những cô thôn nữ của miền quê quan họ nơi này. Dáng người thắt đáy lưng ong uyển chuyển, vành khăn vấn trên đầu bình dị và mềm mại, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy với dải lụa đào thướt tha... Cha ông ta đã rất tinh tế, nhuần nhị khi đặt tượng thờ Kim Đồng, Ngọc Nữ. Về đây, ta gặp sự giao hòa đẹp đẽ giữa tễ tưởng Phật giáo chính thống, một dạng thức văn hóa tinh thần ngoại nhập, với tâm linh, tinh thần bình dân, thuần phác. Ta cũng lại thấy ở đây một minh chứng rõ nét cho quá trình tiếp biến văn hóa, sự Việt hóa những giá trị tinh thần khi nhập nội.

Về chùa Dâu, về Thuận Thành, ta như được tắm mình trong không khí cổ xưa qua dấu ấn của nhiều tầng bậc lịch sử - văn hóa. Đây, đô thành Luy Lâu xưa bên dòng Thiên Đức gợi nhớ thời oanh liệt của Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống xâm lược Đông Hán những năm đầu thế kỷ. Đây dòng sông Dâu đã vào thơ Tố Hữu "con sông Dâu chảy về đâu, mà lơ thơ đến Luy Lâu lại dừng". Đây nữa, miền đất trù phú Keo - Dâu với tích truyện cô thôn nữ hái dâu nết na, xinh đẹp trở thành Nhiếp chính ỷ Lan tài giỏi, trông coi việc nước, giúp vua đánh giặc. Còn kia là Bút Tháp với tượng Phật Bà nghìn mắt, nghìn tay nổi tiếng; là làng tranh Đông Hồ, nơi tâm hồn dân gian dẫu hoàn cảnh nào vẫn luôn mỉm cười trên sắc vàng giấy điệp. Cạnh đó, dòng sông Đuống "ngày xưa cát trắng phẳng lỳ" giờ vẫn bình thản trôi như đã từng trôi qua những bến bờ lịch sử. Và từ chùa Dâu, ta có thể rẽ ngang thăm núi Thiên Thai hay về bên kia sông Đuống dâng hương các vị vua đời Lý tại đền Đô.

Lịch sử đã từng khẳng định vị trí của chùa Dâu trong đời sống văn hóa, tâm linh dân tộc. Ngày nay, chùa Dâu đang được Nhà nước và Giáo Hội Phật giáo Việt Nam quan tâm trùng tu, tôn tạo để xứng đáng với tên gọi"trung tâm của Phật giáo Việt Nam"nhiều thế kỷ.

Phạm Quang Huân

-->đọc tiếp...

Monday, April 13, 2009

Đình Tây Đằng, tinh hoa kiến trúc của người Việt

Đình Tây Đằng được dựng từ thế kỷ 16 với những rường, cột trụ, vì nóc..., thể hiện tinh hoa sáng tạo người Việt một thời.

Tây Đằng đứng đầu trong chuỗi đình của đất Quảng Oai, gồm những làng cổ tọa lạc trên các quả đồi đá ong, một vùng của xứ Đoài xưa, nay thuộc Thủ đô Hà Nội.

TayDang1.jpg

Đình được dựng từ thế kỷ 16, vào loại cổ nhất Việt Nam. Hơn thế, ngoài đình chùa, trong di sản văn hóa vật thể của người Việt, chưa phát hiện được công trình nào làm từ gỗ còn nguyên vẹn mà có niên đại xa xưa hơn.

Ngôi đình có bố cục nguyên thủy: mặt nằng hình chữ nhật, năm gian, nơi thờ trên gác lửng ở gian giữa. Tả mạc, hữu mạc, chuôi vồ xây thêm vào các đời sau.

Cấu trúc gỗ đình đặc trưng bởi bộ vì nóc làm theo kiểu “giá chiêng” với con rường trên cong vồng, có hai trụ hai bên với ván bưng hình lá đề chạm đôi phượng. Vì nóc kiều này chỉ có thể thấy ở một vài kiến trúc có niên đại rất xưa như chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Bối Khê và chùa Mui (Hà Nội), chùa Thái Lạc (Hải Dương).

TayDang2.jpg

Thăm Tây Đằng, du khách có thể bị thu hút, mê hoặc bởi hàng chục, trăm hình thái rồng được chạm khắc và đục đẽo thành tượng tròn, đặt ở các ván bưng, bức cốn, giữ vai trò đầu dư, con sơn.
Chưa một ngôi đình, đền nào khác có một sự thiên biến văn hóa hình rồng đến thế. Thân rồng gầy rộc, con ngươi mắt vượt ra ngoài quỹ đạo, miệng há rộng mà không phát thành âm. Nó nhìn như xói vào cõi lòng...

Đến ngôi đình 500 năm tuổi này, du khách còn bắt gặp một thủ pháp bài trí hiếm thấy trong di sản kiến trúc Việt Nam: một dải trang trí gồm tượng các tiên nữ cười ở dạnh con sơn, được kết nối bằng riềm hoa văn đặt cài dưới mái. Các tiên nữ thổi sáo, tiêu, gảy đàn đáy, đàn nguyệt… Hình hoa sen, đặc biệt hình hoa cúc cùng các mô típ hoa văn xoáy tròn, chạm trên các bảy hiên, đường nét rất tinh túy. Ngôi đình làng, vốn nghèo và hẻo lánh, nhưng tạo sự vương vấn sang trọng, quý phái.

TayDang3.jpg

Đình Tây Đằng còn hiện hữu những bức chạm mô tả và vĩnh cửu hóa cảnh sinh hoạt đời thường: gánh con đi chợ, đốn củi, cày bằng voi, săn hổ, chèo thuyền, con trai ghẹo gái làng, uống rượu… Ngôn ngữ thể hiện cảnh đời của các nghệ sĩ dân gian gần gũi với ngôn ngữ thể hiện của các họa sĩ thế kỷ 20.

Chạm trên ván gió đình Tây Đằng là chú voi tung cả bốn chân, vòi, đuôi và toét miệng cươi, cảm giác chú bay như làn gió, quên mất trọng lượng bản thân. Những thân cột, xà, đầu dư, kẻ bảy đình Tây Đằng tồn tại vượt qua các cửa ải sinh tử: sự mục nát, sự hủy hoại trong bão lũ và trong ngọn lửa, tàn phá và sự tham lam của người đời. Những khúc, mảng gỗ vô giác ấy bảo lưu cả một kho tàng sáng tạo, tình người và khát vọng, làm nhân chứng một thời.

-->đọc tiếp...

Đình Bảng - Vẻ đẹp kiến trúc đình làng xứ Bắc

Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc. Nói về vị thế các ngôi đình, dân gian xứ Bắc có câu ca xếp hạng như sau:

Thứ nhất là đình Đông Khang

Thứ nhì đình Báng, vẻ vang đình Diềm.

Đình Đông Khang ngày nay không còn. Với vẻ đẹp về quy mô kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và cái quý giá hơn là đình Đình Bảng cho du khách một cái nhìn trọn vẹn của kiến trúc đình làng được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, trong khi các ngôi đình khác không còn giữ được dáng vẻ nguyên vẹn nữa.

Cách Hà Nội 20km về phía Bắc, Đình làng Đình Bảng (Đình Báng) thuộc huyện Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là Hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010).

Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ, công sức, sự thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi chứng kiến và diễn ra các hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi các chàng trai, cô gái gửi gắm, bầy tỏ tâm tình.

"Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu"

Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam.

Một góc mái đình làng Đình Bảng (Ảnh: Phạm Quyên)

Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành, do công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dâng làng xây dựng, ngôi đình có thế trường tồn (Nay ngôi nhà cổ của ông Nguyễn Thạc Lượng cho dựng thử trước khi cho dựng Đình Bảng vẫn còn và được gìn giữ bảo tồn).

Đình Bảng là nơi hội tụ văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị nhiên thần: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng Trọt), đây là các vị thần được cư dân nông nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt. Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân cũng thờ Lục Tổ (6 vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV. Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại đình Đình Bảng.

Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước.

Đình Đình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô, nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái Đường (Đại Đình).

Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian, hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt trên các tảng đá xanh vuông vức.

Khi bước vào lòng đình, quý khách được đón chào và bị cuốn hút bởi tất cả sự tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVIII. Sự cuốn hút đầu tiên với mọi du khách là bức cửa Võng lớn ở cung giữa thuộc gian ngoài. Bức Võng phủ kín một diện rộng, kéo dài từ Thượng lương xuống Hạ xà và mở ngang hết một gian. Cửa Võng được chạm lộng kết hợp chạm nổi tinh xảo trên cả 7 lớp, 9 ô các đề tài tứ linh, tứ quí.... phía trên bức cửa Võng là bức trần gỗ che kín mái gian giữa với hình trang trí là một con chim Phượng xoè rộng cánh tới các vầng vân mây quanh đó.

Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ". Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều.

Tháng 2 năm 1946 Bác Hồ đã về thăm và đình Đình Bảng là một trong những địa điểm dự kiến chuẩn bị cho Quốc hội họp phiên đầu tiên. Ngôi đình càng nổi tiếng hơn vì thế.

Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc nói riêng, và đất nước nói chung.

-->đọc tiếp...

Friday, April 10, 2009

Làng cổ Đường Lâm – Làng của đá ong

Một đoạn tường đá ong ở Đường Lâm

Gạch đá ong không chỉ có mặt ở mọi công trình xây dựng của làng Đường Lâm mà nó còn được làm nền đường đi và vây xung quanh các gốc cây ở khu di tích thờ hai vị vua là Ngô Quyền và Phùng Hưng.

* Gạch đá ong - một nét văn hoá truyền thống và nét trang trí nổi bật ở làng cổ Đường Lâm.

Nằm cách Hà Nội khoảng hơn 50 km và cách thị xã Sơn Tây – Thành phố Hà Nội chừng 5 km về phía đông bắc làng cổ Đường Lâm đã trở thành khu du lịch thu hút được đông đảo khách du lịch tới thăm quan. Đến thăm quan làng cổ du khách vừa cảm nhận được vẻ đẹp cổ kính vừa khám phá được không khí thanh bình, dịu mát của làng quê Việt Nam.

Đọc nhiều, nghe nhiều nhưng thực sự làng cổ Đường Lâm vẫn gây sự tò mò cho chúng tôi. Câu nói: “Trăm nghe không bằng một thấy” đã thôi thúc chúng tôi tiến hành chuyến thực tế đến thăm làng đầy thú vị giữa thầy và trò khoa Việt Nam học.

* Xây đình bằng đá ong

Quả không sai chút nào! Khi dừng chân tại đình làng tôi mới cảm thấy một cảnh quan rất lạ, rất đẹp và rất Việt nữa. Khung cảnh xung quanh đã gây sự chú ý cho mọi người nhưng với riêng tôi một điều băn khoăn khi tôi tới đây đó là những viên gạch ĐÁ ONG.

* Gạch đá ong được làm như thế nào?

Tôi đã dạo quanh các làng cổ ở Đường Lâm để tìm hiểu và rồi đề tài tuy nhỏ bé nhưng đã khiến tôi viết lên những nghiên cứu và những tìm hiểu của mình về các công trình được xây bằng gạch đá ong. Lúc đầu tôi cũng nghĩ giống nhiều bạn rằng đá ong được người dân trong làng đúc, chế tạo ra để làm vật liệu chủ yếu cho các công trình trong làng. Nhưng đó chỉ là sự suy luận, mà theo thực tế tôi đã phỏng vấn cụ Hà Văn Soạn, 75 tuổi, giữ chức ban quản lý di tích đình của làng Mông Phụ. Khi được hỏi cụ tận tình nói: “ Gạch xây trên các bức tường của ngôi nhà cổ, hay xung quanh các ngôi đình,…không phải là gạch thường như ở các vùng quê khác có mà ở đây là xây bằng gạch đá ong. Gạch đá ong có từ trong tự nhiên, sẵn có dưới lòng đất và được người dân đào lên rồi dùng khuôn cắt thành viên. Đây được xem như là vật liệu chủ yếu để xây dựng các công trình, đặc biệt là các công trình mang tính chất cổ xưa. Vì vậy mà được gọi là làng Việt cổ đá ong”.

* Tác dụng của gạch đá ong

Đá ong vốn là loại gạch chắc chắn, có tính bền cao và những cái tưởng chừng như sần sùi kia lại chính như là nét hoa văn trang trí hết sức tinh tế góp phần tôn thêm tính thẩm mỹ cho ngôi chùa. Gạch đá ong được dùng để xây đình, chùa nhằm mục đích vừa tạo nên tính bền vững, kiên cố cho các ngôi công trình luôn hiên ngang trước mọi thiên tai và chống chọi với bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Những ngôi nhà cổ đã được xây bằng gạch đá ong hiện nay vẫn rất chắc chắn tuy nó đã trải qua thời gian rất dài gần 400 năm.

Gạch đá ong không chỉ có mặt ở mọi công trình xây dựng của làng Đường Lâm mà nó còn được làm nền đường đi và vây xung quanh các gốc cây ở khu di tích thờ hai vị vua là Ngô Quyền và Phùng Hưng.

Như vậy, có thể thấy gạch đá ong đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng của làng để làng mãi trở thành làng Việt cổ ở Việt Nam, là nơi lưu giữ nhiều ấn tượng cho du khách trong nước và khách nước ngoài.

Mặc dù hiện nay có nhiều vật liệu hiện đại hơn cho việc xây dựng nhưng vẫn không thể thay thế được những viên gạch đá ong đẹp mắt kia. Và những ngôi nhà cao tầng trông rất sang trọng mọc lên xung quanh cũng không che khuất được hay gây sự quan tâm hơn so với những ngôi nhà cổ bé thấp nhưng hiên ngang. Điều đáng mừng là dòng điện cao áp đã về tới ngôi làng cổ Đường Lâm, nó càng làm tăng vẻ đẹp cổ kính của những ngôi nhà cổ được ốp gạch đá ong và báo hiệu một tin mừng rằng Đường Lâm luôn tồn tại và phát triển.

-->đọc tiếp...

Monday, April 6, 2009

Ken Maher nhận giải thưởng KTQG của Australia


Với những cống hiến trong việc ‘định hình cảnh quan tự nhiên và cảnh quan văn hóa’, tạo ra một trong số những ‘không gian công cộng có tính biểu tượng’ nhất của thành phố và ‘đảm bảo thiết kế tốt nhất trong tất cả những tòa nhà trên ba tầng’, kiến trúc sư Ken Maher đã được trao Giải thưởng Kiến trúc hàng đầu quốc gia của Australia của Học viện Kiến trúc của Australia năm 2009 Giải thưởng Gold Medal giành cho Kiến trúc

Với vai trò đại diện danh dự tại lễ kỷ niệm tại Sydney, Chủ tịch Học viện kiến trúc Australia, Howard Tanner đã nói rằng ông rất vinh dự khi được công bố một kiến trúc sư nổi tiếng, kiến trúc sư cảnh quan và người chủ trương thiết kế đô thị Giáo sư Ken Maher của HASSELL đã giành giải thưởng Gold Medal năm 2009.

Người giành giải thưởng Gold Medal dành cho kiến trúc của Hiệp hội Kiến trúc Australia năm 2009: Ken Maher

Về kiến trúc, Ken Maher nổi tiếng với hơn 38 năm sáng tạo ra hàng loạt những dự án nổi bật ở Sydney, Canberra, Adelaide, Brisbane, Trung Quốc và Melbourne. Chỉ riêng ở Sydney, các dự án của ông gồm có dự án cải tạo công viên Luna ở phía Bắc Sydney, bể bơi Olympic phía Bắc Sydney, nhà ga Olympic ở Homebush, các tòa nhà của học viện Nghệ thuật quốc gia (NIDA), và tuyến đường sắt mới Epping Chatswood. Ở nước ngoài, ông đã đưa ra ý tưởng về một trung tâm thành phố bền vững mới được cải tiến ở Chiết Giang,Trung Quốc và đứng đầu nhóm thiết kế một ga tàu điện ngầm mới ở Singapore. Ở Melbourne, ông đang thiết kế một nơi làm việc mới vô cùng rộng rãi cho Ngân hàng ANZ ở khu Docklands.

Nhà hát Canberra, Ảnh: Patrick Bingham Hall

Quan trọng không kém, ông còn được biết đến là người chủ trương cho việc ‘cam kết’ và hợp tác về kiến trúc, điều hành một trong những văn phòng lớn nhất của Australia, là người đóng góp chủ yếu cho những cuộc thi hàng đầu về thiết kế đô thị tại các bang và trên cả nước Úc. Ông có công trong việc giới thiệu Chính sách Quy hoạch Môi trường Quốc gia (SEPP) 65 ở New South Wales (NSW), tài liệu về mẫu thiết kế nhà dân và việc sử dụng ban thẩm tra thiết kế để nâng cao sự phát triển trên khắp Sydney.

Khi trao giải thưởng này, ông Tanner đã nói rằng Hội đồng giám khảo Gold Medal hoàn toàn tin tưởng Ken “đã xuất sắc trong tất cả mọi lĩnh vực”. Nhận xét của hội đồng giám khảo đã được trích lại: “Nhiều kiến trúc sư thảo luận về những vấn đề của công chúng, nhưng rất ít người có thể lái những thay đổi theo hướng tích cực và có tính chất xây dựng như Ken Maher. Là chủ tịch Ủy ban Tư vấn Thiết kế Đô thị của NSW Premier, ông đã giải quyết vấn đề cần dàn xếp những vấn đề phức tạp giữa chính phủ và các bên liên quan mật thiết một cách hiệu quả. Kết quả chính là chính sách quy hoạch môi truờng quốc gia SEPP 65, thể hiện sự tâm huyết của một kiến trúc sư với những dự án lớn về phát triển khu dân cư và việc đảm bảo các điều kiện về thiết kế cũng như tác động của công trình đến môi trường.

Bãi đỗ xe Fox Studios, Ảnh : Patrick Bingham Hall

Kỉ niệm lần thứ 49 và được trao giải hàng năm từ năm 1960, Gold Medal là giải thưởng kiến trúc cao nhất ghi nhận sự đóng góp nổi bật của các kiến trúc sư đã thiết kế hay điều hành những tòa nhà chất lượng cao, hay người đã tạo ra những công trình khác biệt đóng góp cho sự tiến bộ của kiến trúc. Những người được nhận giải gần đây là những kiến trúc sư có thành tích xuất sắc như Richard Johnson, Kerry Hill, Glenn Murcutt, Jørn Utzon, Gregory Burgess, Keith Cottier, Brit AndresenPeter Corrigan.

Học viện Nghệ thuật Quốc gia (NIDA), Ảnh: Patrick Bingham Hall

Những ngưởi Australia nổi tiếng ca ngợi giải thưởng của giáo sư Maher gồm có Thị trưởng Sydney Bà Clover Moore, nguyên giám đốc của NIDA- John Clark và người từng là quản lý NIDA- Elizabeth Butcher. Bà Moore đã nói: “Rất ít kiến trúc sư ở Sydnay có được nhiều công trình phục vụ cộng đồng đạt nhiều giải thưởng và các dự án đô thị như Ken Maher. Tôi đã biết Ken hơn 10 năm và đã quan sát với 1 sự ngưỡng mộ đối với hoạt động thầm lặng nhưng rất thông minh trong việc định hình cảnh quan văn hóa và phong cảnh tự nhiên của Sydney.” Bà cũng nói thêm rằng: ” Khi viết bài này, tôi nhớ về buổi nói chuyện của Ken Maher tại thành phố vào năm 2006, có tên Sustaining Sydney (Sydney bền vững), khi đó ông đã phác thảo ra 6 đề xuất cho việc tạo ra một thành phố bền vững trong tương lai. Tất cả 6 đề xuất đó hiện đã được xác định rõ ràng trong Tầm nhìn Sydney bền vững năm 2030 của thành phố. Kent có sự am hiểu vững vàng trong những vấn đề lớn trong việc định hình 1 thành phố và ông có ảnh hưởng đến các thành phố vượt ra khỏi giới hạn của một chuyên gia thông thường.”

Bể nơi Olympic phía Bắc Sydney, Ảnh: Patrick Bingham Hall

Đối với cống hiến của ông đối với tòa nhà NIDA, bà Butcher và ông Clark đã nói: “Không ai là không thừa nhận rằng đóng góp to lớn của Ken với kiến trúc Australia cũng như kiến thức và vốn hiểu biết vô cùng rộng lớn của ông. Tuy nhiên chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng các thế hệ nghệ sĩ sân khấu trẻ hiện tại và tương lai được đào tạo tại NIDA đều nợ ông 1 lời cảm ơn. Chúng tôi tin tưởng rằng những người khác cũng sẽ đồng ý với nam diễn viên Ralph Fiennes, người đã miêu tả nhà hát Parade của Ken ở NIDA là một nhà hát tuyệt vời nhất mà ông từng được làm việc tại đó.”

Khi bình luận về thiết kế trụ sở ANZ mới tại Melbourne, Chris Carolan của Bovis Lend Lease đã nói: “Trong một vài năm gần đây, nhóm thiết kế và tôi ở Lend Lease đã rất vinh dự được cộng tác cùng Ken và Hassell trong một tòa nhà văn phòng mới cho ANZ ở bờ sông Yarra ở cảng Victoria của Melbourne. Dự án này sẽ đuợc hoàn thành vào cuối năm nay. Nó sẽ là một trong những tòa nhà văn phòng hiện đại nhất và được thân thiện nhất với môi trường. Đây sẽ là công trình tuyệt vời nhất của Ken Maher, đáp lại niềm tin mà nhiều người đặt nơi ông bởi khả năng đưa tham vọng của họ thành hiện thực.”

Nhà ga Olympic Park, Ảnh : Patrick Bingham Hall

Ken Maher đã làm việc tại Úc và nhiều nước khác thế giới từ sau khi tốt nghiệp trường đại học NSW vào năm 1970 với huy chương hạng nhất và Giải thưởng RAIA dành cho thiết kế. Sau đó ông tiếp tục hoàn thành khóa học sau đại học về kiến trúc cảnh quan và nghiên cứu về môi trường.

Các dự án của ông đã giành được những giải thưởng có uy tín gồm có giải thưởng học viện Merit, Canberra Medallion năm 1988, giải thưởng kiến trúc Lachlan Macquarie National năm 1995, giải thưởng Sir Zelman Cowen năm 1998, Sulman Medals năm 1998 và 2002, và giải thưởng cho kiến trúc sư cảnh quan của học viện quốc gia Australia. Ông đã giành chiến thắng trong nhiều cuộc thi trong nước và quốc tế, là một thành viên hội đồng giám khảo thiết kế được coi trọng và là giảng viên môn thiết kế. Hiện tại ông là giáo sư kiến trúc tại trường đại học NSW và thường xuyên có những bài viết về kiến trúc.

Thiết bị trụ sở Westpac Place, Sydney, Ảnh: Tyrone Branigan

Giáo sư Mahner sẽ đi vòng quanh Australia trong hơn sáu tháng sắp tới để nói về những trải nghiệm của ông và về kiến trúc. Chuyến đi này sẽ được người đồng sáng lập chính của Học viện, Thép BlueScope tài trợ. Ông sẽ nói chuyện ở Melbourne vào thứ hai 11/5; Canberra - thứ tư 13/5; Hobart - thứ năm 2/7; Adelaide - thứ tư 26/8; Perth - thứ năm 27/8; Brisbane -thứ hai 5/10; Darwin -thứ tư 7/10. , Ông sẽ trình bày bài diễn thuyết về AS Hook ở Sydney vào cuối tháng 10.

Một số công trình của Ken Maher:

NSW - Sydney: Bể bơi Olympic phía Bắc Sydney; Nhà ga Olympic Park; Học viện nghệ thuật quốc gia(NIDA); Quán cà fê và quảng trường Chifley; Bãi đỗ xe Fox Studios; Đường chuyển tiếp Liverpool/Parramatta; Ngân hàng Deutsche (của Foster and Partners); công viên công cộng Victoria, Zetland; quy hoạch tổng thể Cooks Cove, Sydney; Dự án thể hiện chiến lược Sydney bền vững 2030, Tòa nhà văn phòng, Phố 2 Fitzwilliam, Parramatta; Trang bị trụ sở Westpac, Sydney; Tuyến đường sắt Epping Chatswood; Parramatta Civic Place, Sydney.

ACT: Bệnh viện Bruce Psychiatric, Nhà hát Canberra.

SA: Quy hoạch tổng thế bờ sông Precinct; Tầm nhìn trung tâm Port Adelaide và Khung thiết kế đô thị, Kết cấu bờ sông Promenade Shade, Quy hoạch tổng thể trường đại học Adelaide, Tầm nhìn trung tâm Port Adelaide và Khung thiết kế đô thị.

VICTORIA: Trụ sở ANZ, Docklands.

QUEENSLAND: Khu đô thị Kelvin Grove, Ý tưởng thiết kế đô thị Northbank.

WA: Tháp BHP, Perth, Nghiên cứu thiết kế đô thị trung tâm văn hóa; Riverside Project, Waterfront Common và Hillside Precinct, Perth; Nhà ga Perth Metrorail William St & Esplanade, Perth

TRUNG QUỐC: Mở rộng thành phố Ningbo and Trung tâm thành phố mới; Cuộc thi thiết kế trung tâm triển lãm Thiên Tân;

ẤN ĐỘ: Trụ sở ANZ, Bangalore, Ấn Độ

SINGAPORE: 4 nhà ga dưới lòng đất, Singapore Circle Line

Bên cạnh những dự án này, HASSELL đã thực hiện những công trình chính ở tất cả các bang của Australia và có ảnh hưởng ở Châu Á.

Hội đồng giám khảo Gold Medal 2009, Chủ tịch học viện kiến trúc quốc gia Howard Tanner, Cựu chủ tịch Alec Tzannes, Richard Johnson, người giành Gold Medal năm 2008 cùng 2 kiến trúc sư nổi tiếng Elizabeth Watson-BrownGreg Howlett.

-->đọc tiếp...

Tuesday, March 31, 2009

10 công trình tiêu biểu năm 2007

Xem hình
Các công trình được lựa chọn năm nay không chỉ bởi thiết kế đẹp mà còn bởi những tiêu chí phục vụ công việc kinh doanh. Đây là năm thứ 10, BusinessWeek và Architectural Record cùng phối hợp tổ chức cuộc bầu chọn này.

Có hơn 100 tòa nhà khắp toàn cầu đã được đưa vào danh sách để chọn ra 10 công trình tiêu biểu nhất. Tiêu chí năm nay được đặt ra cao hơn mọi năm. Những tòa nhà này ngoài những đặc điểm ấn tượng trong kiến trúc, đều phải đáp ứng sự thuận lợi cho mỗi hoạt động mà nó phục vụ, từ khu văn phòng, trung tâm thương mại, thể thao, bảo tàng... Ban giám khảo là những kiến trúc sư, phóng viên đến từ BusinessWeek và Architectural Record.

1. Trụ sở chính của InterActiveCorp tại New York đoạt giải đặc biệt. Công trình do nhóm KTS Gehry Partners Studios Architecture thực hiện. Nhiều người đã so sánh công trình cao 10 tầng này với một con thuyền đang no gió, nằm ngay gần khu Manhattan. Đây là một tòa nhà được coi là sẽ tạo nên những hình ảnh mới trong thế kỷ 21. Tòa nhà hoàn toàn tự động hóa, mọi hoạt động đều được thiết kế dựa trên các ứng dụng web. Nội thất đã đạt tới sự hoàn mỹ, giúp các không gian được thông suốt. Hành lang công cộng của tòa nhà được coi là lớn nhất thế giới với những bức tường video có độ phân giải rất cao.


2. Trung tâm Nghệ thuật Biểu diễn dành cho giới trẻ tại Toronto do văn phòng KTS Kuwabara Payne McKenna Blumberg thực hiện.


3. Trụ sở chính của Cục Điều tra dân số Mỹ tại Suitland, bang Maryland do các KTS Skidmore, Owings và Merrill thiết kế.

4. Trung tâm Hải quân Federal Credit Union's Heritage Oaks Center, tòa nhà o­ne Pensacola tại bang Florida do nhóm KTS ASD thực hiện.

5. Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Bốn mùa tại Toronto do nhóm KTS Diamond và Schmitt thực hiện.


6. Cao ốc Hearst Tower tại New York do nhóm KTS Norman Forster và cộng sự thực hiện.

7. Tòa nhà trụ sở chính Hubbell Lighting Greenville, S.C. do KTS McMillan Smith và các cộng sự thực hiện.

8. Công trình SJ Berwin tại London của nhóm kiến trúc sư HOK.

9. Sân bóng chày San Diego Padres Ballpark của Công ty Kiến trúc Antoine Predock.

10. Bảo tàng Gardiner tại Toronto (Canada) do nhóm KTS Kuwabara Payne Mckenna Blumberg thiết kế.

-->đọc tiếp...

TrinhGia architect latest post

Advertisement

Free Games www.roask.com Free web directoryVermeld Web Directory Winentrance.com Explore2india.com Genuineinfotech.com Globalcomputerbusiness.com Cybergiftindia.com
Dmegs Web Directorycommercial property to rent businesses for saleWebRoads Deep Links DirectoryPin By Directory Catalog Clonet

Blog Archive

 

Copyright 2008 All Rights Reserved TrinhGia architect group by TrinhChienThang Converted into Blogger Template by Bloganol dot com